Tật Nứt Đốt Sống là gì ?

Khái Niệm về Tật Nứt Đốt Sống

Tật nứt đốt sống là một trong những dạng khiếm khuyết ống thần kinh nghiêm trọng, xuất phát từ sự không đóng kín hoàn toàn của cột sống hoặc sự hở gai xương. Đây là một trong những vấn đề bẩm sinh phổ biến, đặc biệt phổ biến ở Mỹ với tỷ lệ khoảng 1/1500 trẻ em.

tan-nut-dot-song

Vị Trí và Mức Độ Nặng

Nứt đốt sống thường xuất hiện ở vùng đốt sống ngực, thắt lưng hoặc xương cùng. Kích thước và nặng nhẹ của triệu chứng thay đổi tùy thuộc vào vị trí và mức độ nghiêm trọng của khiếm khuyết. Tùy vào từng trường hợp, triệu chứng có thể không rõ ràng hoặc gây tử vong nếu ảnh hưởng nghiêm trọng đến tủy sống.

Dạng của Tật Nứt Đốt Sống

  • Nứt Đốt Sống Ẩn: Xuất hiện khoảng hở ở một hoặc nhiều đốt sống mà không gây tác động rõ ràng đến tủy sống. Tuy khoảng 40% người Mỹ có thể mắc phải, nhưng thường không được chẩn đoán do thiếu triệu chứng.
  • Thoát Vị Màng Não: Màng não thoát ra qua đốt sống trong một túi, không ảnh hưởng đến tủy sống. Tỷ lệ này là 1/1000 trẻ.
  • Thoát Vị Tủy – Màng Tủy: Đây là dạng nghiêm trọng nhất, tủy sống bị hở ra qua lưng. Các túi thoát vị có thể được da bao bọc hoặc mô tuỷ và dây thần kinh bị hở ra.
Xem thêm  Bồ đề lá răng

Nguyên Nhân và Chẩn Đoán

Nguyên nhân của tật nứt đốt sống vẫn chưa được xác định rõ, nhưng có thể liên quan đến yếu tố di truyền, môi trường sống, chế độ ăn uống và thuốc uống khi mang thai. Chẩn đoán thường được đưa ra trước sinh bằng siêu âm hoặc thông qua việc đo nồng độ α-fetoprotein trong nước ối và huyết thanh của người mẹ.

Điều Trị

Phương pháp điều trị chủ yếu cho tật nứt đốt sống là phẫu thuật. Đối với các trường hợp nhẹ, theo dõi sức khỏe có thể đủ. Trong khi nếu tình trạng nghiêm trọng, phẫu thuật có thể được thực hiện để sửa chữa và khắc phục vấn đề.

Tiên Lượng và Biến Chứng

Tiên lượng của tật nứt đốt sống phụ thuộc vào mức độ và vị trí tổn thương tủy sống, cũng như mức độ nghiêm trọng của các dị tật khác liên quan. Mặc dù có thể có các biến chứng như van não thất và mất chức năng thận, nếu được chăm sóc thích hợp, hầu hết trẻ em có thể có tiên lượng tốt.