Có trường hợp vi khuẩn lao đã gây bệnh tại phổi nhưng người bệnh chưa được phát hiện và chữa trị, nên vi khuẩn tiếp tục sinh sôi phát triển và lan đến các cơ quan khác trong cơ thể. Khi đó, người bệnh không chỉ bị lao phổi mà còn bị lao ở các cơ quan khác, làm tình trạng bệnh trở nên trầm trọng. Cũng có trường hợp vi khuẩn lao chỉ “quá cảnh” tại phổi mà không gây bệnh tại đó, sau đó, theo dòng máu, chúng đi đến nhiều cơ quan trong cơ thể và gây bệnh tại các cơ quan đó. Mỗi thể bệnh lao ngoài phổi đều có những biểu hiện riêng biệt.
Ví dụ:
1. Lao màng não:
Người bệnh thường có các triệu chứng nhức đầu, sốt, buồn nôn, và nôn mửa nhiều. Có thể xuất hiện tình trạng lú lẫn, quên, hỏi trả lời chậm, ngủ nhiều, li bì, hoặc hôn mê.
2. Lao kê:
Vi khuẩn lao tạo thành những nốt li ti ở nhiều cơ quan như phổi, gan, lách. Lao kê thường đi kèm với lao màng não.
3. Lao thận – Lao tiết niệu:
Bắt đầu âm thầm, sau đó có sốt nhẹ, tiểu buốt, và tiểu ra máu. Nếu không chữa trị, có thể lan sang toàn bộ hệ tiết niệu, gây lao toàn thể.
4. Lao sinh dục:
Gây ra các bệnh lao ở các cơ quan sinh dục như túi tinh, mao tinh hoàn ở nam giới và ống dẫn trứng, tử cung, cổ tử cung, âm đạo ở nữ giới. Lao sinh dục có thể gây vô sinh và ảnh hưởng đến thai nhi.
5. Lao xương khớp:
Vi khuẩn lao gây đau đớn ở xương và khớp, thường dẫn đến biến dạng đốt sống và gù vẹo cột sống.
6. Lao đường ruột:
Vi khuẩn lao xâm nhập đường tiêu hóa, gây đau bụng, tiêu chảy, tắc ruột, thủng ruột, và viêm phúc mạc.
7. Lao màng phổi, lao màng bụng, lao màng tim:
Vi khuẩn lao gây viêm ở các màng này, làm tăng tiết dịch. Có thể gây sốt, ớn lạnh, mệt mỏi, khó thở.
8. Lao hạch:
Lao hạch thường gặp ở cổ, nách, không gây đau và có thể bị bỏ qua.
Trong khi bệnh lao phổi có khả năng lây nhiễm cao qua đường hô hấp, thì các thể bệnh lao khác thường ít gây lây nhiễm cho người xung quanh.